Khổ thơ thứ năm trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những đoạn thơ hay nhất, thể hiện sâu sắc nỗi nhớ da diết của người cán bộ về xuôi đối với chiến khu Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy bao trùm lên cảnh vật thiên nhiên, con người và những kỉ niệm kháng chiến.
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”
Nỗi nhớ được ví von “như nhớ người yêu”, một so sánh đầy thi vị, cho thấy tình cảm sâu nặng, thiết tha, luôn thường trực trong tâm trí người cán bộ. Hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, hữu tình: trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản làng mờ sương, bếp lửa ấm áp. “Người thương” ở đây chính là đồng bào Việt Bắc, những người đã cưu mang, che chở cán bộ suốt những năm kháng chiến gian khổ.
Hình ảnh minh họa bài thơ Việt BắcHình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng của vùng Việt Bắc – nơi ghi dấu những kỉ niệm kháng chiến hào hùng.
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”
Nỗi nhớ trải dài theo không gian, từ rừng nứa, bờ tre đến những địa danh quen thuộc như Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê. Từng cảnh vật đều in đậm trong tâm trí người ra đi, gợi nhớ về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất này.
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
Nỗi nhớ hướng về những ngày tháng gian khổ nhưng chan chứa tình nghĩa. Hình ảnh “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ cho những khó khăn, gian nan và cả niềm vui chiến thắng mà cán bộ và nhân dân cùng nhau trải qua. Những chi tiết giản dị như “chia củ sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng” lại càng làm nổi bật tình cảm gắn bó, chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau giữa người cán bộ và đồng bào Việt Bắc.
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.”
Hình ảnh người mẹ tần tảo, chịu thương chịu khó, “nắng cháy lưng” vì con, vì cuộc sống mưu sinh càng làm người cán bộ thêm xót xa, thương nhớ. Tấm lòng của người mẹ Việt Bắc cũng chính là tấm lòng của nhân dân Việt Bắc, luôn sẵn sàng sẻ chia, đùm bọc cán bộ, bộ đội.
Hình ảnh minh họa bài thơ Việt BắcHình ảnh người mẹ Việt Bắc lam lũ, vất vả nhưng giàu tình thương, luôn sẵn sàng sẻ chia, đùm bọc cán bộ.
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Nỗi nhớ trải dài theo thời gian, từ những buổi học “i tờ” đến những giờ liên hoan rộn ràng, từ ngày tháng gian nan nơi cơ quan đến tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày đêm đều đều bên suối xa. Tất cả đều là những hình ảnh, âm thanh quen thuộc, gợi nhớ về một thời kháng chiến đầy gian khổ nhưng cũng rất đỗi hào hùng, lạc quan.
Khổ thơ thứ năm của bài thơ Việt Bắc là một bức tranh trữ tình, đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó giữa người cán bộ và chiến khu Việt Bắc. Nỗi nhớ da diết ấy không chỉ là nỗi nhớ về một vùng đất, một thời đã qua mà còn là nỗi nhớ về tình nghĩa, về sự sẻ chia, đùm bọc, về những năm tháng kháng chiến hào hùng của dân tộc.