Bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du thể hiện nỗi xót thương cho số phận bất hạnh của người phụ nữ tài hoa bạc mệnh trong xã hội phong kiến. Đồng thời, bài thơ cũng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với những người có tài nhưng gặp phải oan khuất, thể hiện một khía cạnh quan trọng trong chủ nghĩa nhân đạo của ông.
Bài thơ được xây dựng theo kết cấu đề, thực, luận, kết đặc trưng của thơ Đường luật. Sáu câu thơ đầu thể hiện nỗi niềm thương xót của Nguyễn Du đối với Tiểu Thanh, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại có số phận bi thương. Hai câu cuối là lời than thở của tác giả về thân phận của mình, một người cũng mang trong mình nỗi oan khuất.
Vẻ đẹp và tài năng của Tiểu Thanh được thể hiện qua hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương”. “Son phấn” tượng trưng cho sắc đẹp, còn “văn chương” là biểu tượng cho tài năng văn học xuất chúng. Tuy nhiên, cả hai thứ quý giá này đều bị chôn vùi, đốt cháy một cách oan uổng.
Nghệ thuật đối được sử dụng tinh tế trong hai câu thực và hai câu luận. Hai câu thực: “Son phấn có thần chôn vẫn hận / Văn chương không mệnh đốt còn vương” đối nhau về ý nghĩa và từ ngữ, tạo nên sự tương phản mạnh mẽ. Hai câu luận: “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi / Cõi oan phong lưu khách tự mang” cũng sử dụng nghệ thuật đối để nhấn mạnh nỗi oan khuất của người tài hoa.
Số phận của Tiểu Thanh và thái độ của Nguyễn Du được thể hiện rõ nét qua hai câu thơ: “Son phấn có thần chôn vẫn hận / Văn chương không mệnh đốt còn vương”. Nguyễn Du xót xa cho số phận của Tiểu Thanh, một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị chôn vùi oan uổng. Ông đồng cảm với nỗi hận của nàng, nỗi hận của người tài hoa bị xã hội phong kiến vùi dập.
Nguyễn Du tự xem mình là người cùng hội với những người “phong lưu” thanh lịch, tài hoa nhưng mang nỗi oan lạ lùng. Ông không chỉ thương xót cho Tiểu Thanh mà còn cảm thấy đồng cảm với nỗi oan khuất của những người tài hoa trong xã hội. Điều này thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc và tấm lòng nhân đạo bao la của Nguyễn Du.
Nghệ thuật đối trong bài thơ được sử dụng rất hiệu quả. Nó không chỉ tạo nên sự cân đối, hài hòa về mặt hình thức mà còn góp phần làm nổi bật nội dung, tư tưởng của tác giả. Sự đối lập giữa “son phấn” và “văn chương”, giữa “chôn vẫn hận” và “đốt còn vương”, giữa “nỗi hờn kim cổ” và “cõi oan phong lưu” đã khắc họa rõ nét bi kịch của người tài hoa trong xã hội phong kiến.
Hai câu thơ kết: “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” thể hiện tâm sự của Nguyễn Du về số phận của mình. Ông tự hỏi liệu sau này có ai sẽ khóc thương cho mình như mình đã khóc thương cho Tiểu Thanh? Câu hỏi này chứa đựng nỗi niềm cô đơn, sự băn khoăn về thân phận của người nghệ sĩ trong xã hội.