Phân tích tác phẩm Vợ Nhặt

Nạn đói năm 1945 đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người dân Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học đầy xúc động. Trong số đó, truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân nổi bật lên như một bức tranh chân thực và đầy ám ảnh về cuộc sống khốn cùng của người nông dân trong thời kỳ này. Tác phẩm không chỉ khắc họa thảm cảnh đói khổ mà còn làm sáng lên vẻ đẹp của tình người, khát vọng sống và hy vọng vào tương lai.

Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài (1920-2007), là một nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn và người nông dân. Ông được biết đến với những tác phẩm thấm đẫm hơi thở cuộc sống làng quê, với những nhân vật mộc mạc, chân chất nhưng giàu tình cảm. “Vợ nhặt”, in trong tập truyện “Con chó xấu xí” (1962), được xem là tác phẩm xuất sắc nhất của ông, được viết lại từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” dang dở trước đó.

Nhan đề “Vợ nhặt” đã thể hiện rõ giá trị nội dung và tư tưởng của tác phẩm. “Nhặt” – một động từ bình thường, khi đi kèm với danh từ “vợ” lại mang ý nghĩa chua xót, phản ánh số phận con người bị coi rẻ rúng như đồ vật trong nạn đói khủng khiếp. “Nhặt vợ” khác với “cưới vợ”, “lấy vợ”, nó cho thấy sự khốn cùng của hoàn cảnh, sự dễ dãi đến mức bất thường trong việc kết hôn, khi mà giá trị con người bị hạ thấp đến tột cùng.

Tình huống truyện được xây dựng hết sức độc đáo và éo le. Tràng, một chàng trai nghèo khổ, xấu xí, lại “nhặt” được vợ giữa lúc nạn đói hoành hành. Điều này gây ra sự ngạc nhiên cho tất cả mọi người, từ trẻ con đến người lớn trong xóm ngụ cư, cả mẹ của Tràng và chính bản thân anh cũng không khỏi ngỡ ngàng. Tình huống này vừa mang giá trị hiện thực, tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, vừa thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, ca ngợi tình yêu thương, sự cưu mang, đùm bọc giữa những con người cùng cảnh ngộ.

Tràng và người vợ nhặt, hai con người khốn khổ bị cái đói dồn đến đường cùng. Tràng mệt mỏi, tiều tụy, không có tiền cưới vợ, ngày vui cũng chỉ có cám mà ăn. Người vợ nhặt thì rách rưới, gầy sọp, đến cái tên cũng không có, phải theo không Tràng chỉ sau bốn bát bánh đúc. Họ đến với nhau không phải vì tình yêu mà là sự nương tựa, gắn bó để tồn tại, để sống, để cuộc đời bớt vô nghĩa giữa nạn đói.

Tuy sống trong cảnh cùng cực, Tràng và người vợ nhặt vẫn khao khát hạnh phúc gia đình. Lúc đầu, Tràng chỉ đùa cợt nhưng khi đưa người vợ nhặt về, anh lại tràn đầy tình nghĩa, quên cả đói khát. Sáng hôm sau, Tràng thấm thía cảm động trước mái ấm gia đình. Người vợ nhặt cũng thay đổi, trở nên hiền hậu, đúng mực.

Cả hai đều hướng về tương lai với niềm tin và hy vọng. Tràng nghĩ đến việc tu sửa nhà cửa, sinh con đẻ cái, lo lắng cho vợ con. Hình ảnh đám người phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ của Việt Minh đã gieo vào lòng anh niềm tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn. Người vợ nhặt cũng cùng mẹ chồng quét dọn nhà cửa, nói chuyện phá kho thóc, chuyện Việt Minh, thể hiện mong muốn thay đổi cuộc sống.

Bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, cũng trải qua nhiều cung bậc cảm xúc. Ban đầu là sự ngạc nhiên, sau đó là lo âu, thương cảm và tủi thân. Nhưng rồi bà cũng hướng về tương lai với niềm hy vọng, nói chuyện nuôi gà, động viên con dâu bằng triết lý “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”.

Kim Lân đã thành công trong việc khắc họa tâm lý nhân vật một cách tinh tế và sâu sắc. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, đậm chất nông thôn càng làm tăng thêm sức sống cho tác phẩm. “Vợ nhặt” không chỉ là một câu chuyện về nạn đói mà còn là bài ca về tình người, về khát vọng sống và hy vọng vào tương lai tươi sáng.

Article by Kế Toán Hà Nội

Kế toán hà nội - KTHN tên giao dịch là công ty cổ phần nghiên cứu và hỗ trợ doanh nghiệp hà nội chuyên về đào tạo kế toán thực hành làm dịch vụ kế toán trọn gói

Có thể bạn quan tâm