Văn mẫu lớp 11: Dàn ý phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù (6 mẫu)

Dàn ý phân tách cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù gồm 6 mẫu dàn ý cụ thể, đầy đủ nhất. Thông qua 6 dàn ý về cảnh cho chữ giúp các bạn lớp 12 có thêm nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi tri thức mau chóng nắm được các luận điểm, luận cứ để biết cách viết bài văn phân tách văn 11 ngày 1 hay hơn.

Cảnh cho chữ là 1 cảnh rực rỡ, “bấy lâu chưa từng có”, kết tinh trị giá nghệ thuật và tư tưởng của Nguyễn Tuân, làm nổi trội và hoàn chỉnh vẻ đẹp tư cách của mỗi đối tượng. Với cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân đã khẳng định, giữa chốn nhà ngục tù ngục, không hề những kẻ đại diện cho quyền lực cai trị mọi thứ nhưng chính người tử tù với tài năng và cốt cách làm chủ. Vậy sau đây là 6 mẫu dàn ý cảnh cho chữ cụ thể nhất, mời các bạn cùng theo dõi nhé.

Dàn ý cảnh cho chữ – Mẫu 1

1. Mở bài cụ thể dàn ý phân tách cảnh cho chữ

– Khởi đầu bài dàn ý phân tách cảnh cho chữ, các bạn cần giới thiệu nói chung về tác giả Nguyễn Tuân. Ông là 1 nghệ sĩ có tâm hồn khẩn thiết với cái đẹp. Ông luôn hướng về nó với cả trái tim. Văn học của ông luôn vẽ nên những bức chân dung và cảnh tượng đẹp tới ngỡ ngàng. Trong ấy, cảnh huống cho chữ trong lao tù ở tác phẩm Chữ người tử tù là thí dụ điển hình.

– Khái quát cảnh cho chữ: cảnh huống này xảy ra giữa Huấn Cao và viên quản ngục cùng thầy thơ trong chốn ngục tù tối tăm. Đây là cảnh tượng nhưng theo tác giả là “bấy lâu chưa từng có”. Cảnh đó mang trị giá nhân bản thâm thúy lẫn trị giá nghệ thuật lạ mắt.

2. Thân bài cụ thể dàn ý phân tách cảnh cho chữ

Luận điểm 1: Khái quát tình cảnh dẫn tới cảnh huống cho chữ

– Trước tiên cần nói về 2 đối tượng chính tử tù Huấn Cao và viên quản ngục. Huấn cao là 1 người hùng thời loạn. Ông khởi nghĩa chống lại triều đình để bảo vệ thứ dân. Ông là 1 nghệ sĩ tài giỏi với tài viết chữ nổi danh. Tuy nhiên ông có nguyên lý sống riêng lúc chỉ cho chữ những người nào yêu mến, trân trọng, nhưng ko bao giờ chịu quỳ gối trước uy quyền, tiền của. Ông thích sự tự do, yêu cái đẹp và thiện lương. Trong lúc ấy viên quản ngục là 1 người đàng hoàng, biết quý trọng người tài và cũng hết sức yêu cái đẹp. Mặc dầu làm nghề cai ngục nhưng mà ông vẫn luôn giữ trong mình khao khát xin được chữ Huấn Cao. Ông cũng nể sợ trước tài năng đức độ của người tử tù.

– Chính vì vậy, cảnh huống truyện lạ mắt đã xảy ra. Huấn Cao lúc biết viên quản ngục dù sống trong bùn đen nhưng mà vẫn ko tanh hôi mùi bùn nên đã đồng ý cho chữ.

Luận điểm 2: cảnh cho chữ diễn ra trong ngục tù

Lập dàn ý phân tách cảnh cho chữ các bạn cần nhấn mạnh về thời kì và ko gian diễn ra cảnh huống đó.

– Về thời kì, cảnh cho chữ này diễn ra vào thời kì giữa đêm khuya thanh u. Đặc trưng ấy là đêm rốt cuộc trước lúc Huấn Cao, con người tài giỏi, nghĩa hiệp phải thi hành án xử.

– Về ko gian, thật quá đặc thù. Bởi thông thường, cảnh cho chữ thiêng liêng, nghệ thuật sẽ diễn ra nơi trai phòng với hương thơm ngạt ngào, ánh đèn minh bạch. Nhưng ở đây, trái lại, cảnh cho chữ lại diễn ra trong lao tù, nơi cùng tận của xã hội, trên nền đất ẩm mốc, mùi hôi thối của phân gián, chuột và dưới ánh sáng của 1 ngọn đuốc…

– Về con người tiến hành cảnh cho chữ ấy cũng hết sức dị biệt. Bởi người cho chữ mặc dầu bị cùm gông nhưng mà vẫn thung dung, tự tại, uy phong phóng bút với những nét bút đẹp tuyệt trần. Trong lúc ấy, viên quản ngục và thầy thư lại cúi đầu đón chờ như 1 đặc ân từ tử tù.

– Cho chữ xong, Huấn Cao còn khuyên lơn viên quản ngục hãy tìm nghề khác, làm nghề nào để có thể trở về với sự thiện lương vốn có.

– Khẳng định ý tưởng của cảnh cho chữ ấy là dù bóng tối có che phủ như thế nào thì cái đẹp vẫn luôn vươn lên, sáng đặc sắc.

Luận điểm 3: tại sao nói đây là cảnh “bấy lâu chưa từng có”

Trong dàn ý phân tách cảnh cho chữ, các bạn cần đưa ra lí do tại sao Nguyễn Tuân khẳng định đây là cảnh “ bấy lâu chưa từng có”

Thứ nhất, ko gian cho chữ khác biệt. Thường, người ta sẽ cho chữ nơi uy nghiêm, nơi cái đẹp ngự trị nhưng mà đây lại là chốn dung thân của cái ác. Nơi giam cầm tất cả những tên cầm tù, ko còn quyền làm người tầm thường.

Thứ 2, lúc sáng tác nghệ thuật, người nghệ sĩ phải có tâm trọng và tư thế dễ chịu, tự do, khoáng đạt. Thế nhưng mà, trái lại, Huấn Cao lại ở trong thế bị cùm gông, xiềng xích và cái án xử tử treo lửng lơ trên đầu.

Thứ 3, người xin chữ không hề là người thấp cổ nhỏ họng, người dân thường. Nhưng mà là 1 người có chức có quyền. Người có vị thế cao hơn tên tử tù kia. Thế nhưng mà, viên quản ngục lại tỏ ra khúm núm, run sợ trước tên tử tử.

Chứng dẫn: “Ban đêm đó, khi trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng tiêu, 1 cảnh tượng bấy lâu chưa từng có đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm mốc, tường đầy màng nhện, tổ rệp, đất lộn xộn phân chuột và gián. Trong 1 ko khí tỏa như đám cháy, ánh sáng đỏ ngòm của 1 bó đuốc tẩm dầu rọi lên trên 3 cái đầu người đang chuyên chú trên 1 tấm lụa bạch còn vẹn nguyên lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt làm họ dụi mắt lia lịa. 1 tên tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng bốp căng phẳng trên mảnh ván”.

“Tên tù viết xong 1 chữ, tên quản ngục lại khúm núm cất những đồng bạc kẽm ghi lại ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thư lại gầy gò thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn phiền đỡ viên quản ngục đứng thẳng dậy và đĩnh đạc…”

Luận điểm 4: ý nghĩa thâm thúy của cảnh cho chữ

Ở phần cuối phần thân bài trong dàn ý phân tách cảnh cho chữ, các bạn cần nhấn mạnh tới những ý nghĩa thâm thúy của cảnh huống này.

Thứ nhất, ấy là ca ngợi tấm lòng lương thiện của 2 đối tượng chính, Huấn Cao và viên quản ngục.

Thứ 2, ấy là ca tụng thắng lợi vang lừng nhất của cái đẹp dù trong bất kỳ tình cảnh nào. Chứng dẫn hình ảnh ánh sáng từ bó đuốc đã thắp sáng lên cả 1 vùng tăm tối của ngục thất. Hình như ánh sáng và vẻ đẹp của cảnh cho chữ đã đẩy lùi mọi sự xấu xa, hôi thối khỏi quầng sáng của mình.

Thứ 3, ý nghĩa của cảnh cho chữ còn trình bày ở việc khẳng định vẻ đẹp của tâm hồn Huấn Cao. Từ ấy, gợi mở ra quan niệm, gu thẩm mỹ của nhà văn. Cả nhà văn Nguyễn Tuân lẫn Huấn Cao đều cho rằng, những người nào yêu cái đẹp, biết trân quý cái đẹp đều có bản tính thiện lương. Có thể có người do tình cảnh xô đẩy nhưng rơi vào cảnh bùn nhơ nhưng mà tâm hồn họ vẫn trắng trong, tốt bụng. Và theo nhà văn, cái đẹp có thể tẩy rửa và làm sạch tâm hồn con người.

3. Kết bài

Trong phần kết bài dàn ý phân tách cảnh cho chữ trong Chữ người tử từ, các bạn cần 1 lần nữa khẳng định lại vẻ đẹp hoàn mỹ và có 1-0-2 của cảnh tượng này. Cùng lúc, nhấn mạnh ý nghĩa nhân bản thâm thúy cùng nghệ thuật xây dựng cảnh huống truyện rực rỡ của nhà văn Nguyễn Tuân.

Qua ấy, các bạn nêu rõ thông điệp và ý kiến về cái đẹp của nhà văn Nguyễn Tuân trước cái đẹp, sự đàng hoàng và những tâm hồn thiện lương.

Dàn ý phân tách cảnh cho chữ – Mẫu 2

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Chữ người tử tù và dẫn dắt tới cảnh cho chữ.

Tỉ dụ: Nguyễn Tuân là nhà văn có cá tính lạ mắt. Có người đã cho rằng mỗi sáng tác của ông như đóng 1 dấu triện riêng. Tuy nhiên, điều thú vị là, dấu ấn này không hề qua vài tác phẩm mới biểu thị, nhưng ngay từ tập truyện ngắn đầu tay “Vang bóng 1 thời” (1940) đã được in đậm. “Chữ người tử tù” là 1 truyện ngắn tuyệt vời của Nguyễn Tuân nằm trong tập truyện trên. Người đọc có thể trông thấy những nét rực rỡ trong cá tính nghệ thuật của tác giả bậc thầy này qua cảnh cho chữ lạ mắt của thiên truyện.

II. Thân bài

1. Khái quát về tác phẩm Chữ người tử tù

– “Chữ người tử tù” là truyện ngắn tụ hội nhiều cái “nhất” trong sự nghiệp của Nguyễn Tuân: Có đối tượng hấp dẫn nhất (Huấn Cao), đối tượng lạ nhất (Quản ngục), cảnh lạ mắt nhất (cảnh cho chữ). Tất nhiên, với tất cả những điều đó, truyện ngắn này cũng có 1 địa điểm đặc thù, mọi người đều hợp nhất rằng đây là 1 trong những truyện hay nhất trong “Vang bóng 1 thời” (1940) – tập truyện ngắn đầu tay của nhà văn đã được “Tự lực văn đoàn” trao giải.

– Câu chuyện kể về những ngày Huấn Cao ở trong nhà tù tỉnh Sơn, trước lúc về kinh thụ án. Vẻ đẹp của đối tượng này, tư tưởng của thiên truyện đều rạng ngời đặc sắc trong cảnh cho chữ. Chính vì thế, có thể khẳng định rằng ở cảnh này, mọi nét đậm nhất trong cá tính của Nguyễn Tuân đã tụ lại.

2. Phân tích cảnh cho chữ

– Nếu nói như G.S. Nguyễn Đăng Mạnh: “Nguyễn Tuân là nhà văn của những tính cách phi thường, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt”, thì có thể mau chóng trông thấy rằng cảnh cho chữ đã tụ hội tất cả những nét vượt bậc đó. Đây là 1 quang cảnh đặc thù, và chính người khắc hoạ cũng khẳng định rằng ấy là “1 cảnh tượng bấy lâu chưa từng có”.

– Sự đặc thù này xuất hiện ở mọi góc của cảnh: thời kì, ko gian và đối tượng.

* Nhân vật:

  • Thông thường: Người cho chữ và người được cho chữ là những tri kỉ tri kỷ tới độ “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Ở họ luôn toát ra sự an nhiên, điềm tĩnh, thung dung của bậc túc nho.
  • Trong tác phẩm: Người cho chữ là 1 tử tù, người được cho chữ là viên quản ngục. Họ có địa điểm đối chọi trong xã hội. Hơn nữa, họ mới gặp nhau hơn nửa tháng. Đặc trưng, cảnh cho chữ đã diễn ra 1 sự thay bậc đổi ngôi, lúc người tù thì dù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn đứng thẳng người và đĩnh đạc, còn quản ngục “khúm núm” và nghẹn ngào. Trong quan hệ xã hội họ là đối phương nhưng mà trong phương diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ tri âm.

* Không gian:

  • Thông thường: Người ta viết chữ cho nhau ở nơi trai phòng sạch bóng, ko gian của học thuật.
  • Trong tác phẩm: Người ta viết chữ cho nhau trong “1 buồng tối chật hẹp, ẩm mốc, tường đầy màng nhện, đất lộn xộn phân chuột, phân gián”. Đây là ko gian nhưng cái xấu, cái ác cai trị.

* Thời gian:

  • Thông thường: Người ta cho chữ lúc thư nhàn, thư thả, trong ánh sáng của buổi mai ấm áp.
  • Trong tác phẩm: Người ta cho chữ vào đêm tối 1 cách hấp tấp, chạy đua với thời kì, gấp rút tránh những ánh mắt của bọn lính tới phiên canh buổi sáng và tránh cái công văn oan trái giải người về kinh thụ án.

=> Nhận xét: 1 cảnh tượng “bấy lâu chưa từng có”.

3. Ý nghĩa của cảnh cho chữ

– Cho thấy Huấn Cao không hề là 1 nghệ sĩ bậc thầy trong nghệ thuật thư pháp, đang thông minh ra cái đẹp siêu đẳng trước lúc đi vào cõi bất diệt.

– Huấn Cao còn hiện lên với vai trò của người hướng thiện: “Ở đây lộn lạo ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không hề là nơi để treo 1 bức lụa với những nét chữ vuông tươi tỉnh nói lên cái hoài bão vẫy vùng của 1 đời con người”.

=> Trong cảnh này, cái tài, thiên lương và khí phách của bậc chính nhân quyện vào nhau làm nên 1 vẻ đẹp có thể cứu rỗi những tâm hồn.

III. Kết bài

Nhà thơ Lê Đạt đã viết: “Mỗi công dân có 1 dạng vân tay/Mỗi thi sĩ thứ thiệt có 1 dạng vân chữ”. Đề nghị này ko chỉ đối với thi sĩ, nhưng với nhà văn cũng thật cần phải có. Nguyễn Tuân chính là nhà văn có “vân chữ” chẳng thể lẫn, điều đó đã được chứng minh thuyết phục qua cảnh cho chữ trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”.

Xem thêm Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù

Dàn ý phân tách cảnh cho chữ – Mẫu 3

I. Mở bài

– Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Tuân, nội dung chính của truyện ngắn Chữ người tử tù.

– Giới thiệu cảnh cho chữ – 1 cảnh tượng “bấy lâu chưa từng có” được Nguyễn Tuân xây dựng.

II. Thân bài

1. Sự thắng lợi của ảnh sáng đối với bóng tối

– “Cảnh cho chữ diễn ra vào khi đêm khuya ở nhà ngục. Nhà ngục vốn đã tăm tối, lại vào đêm khuya khoắt, càng chi chít bóng tối. Nhưng “trong 1 ko khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc tẩm dầu rọi lên 3 cái đầu người đang chuyên chú trên 1 tấm lụa bạch còn vẹn nguyên lần hồ” và “lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”. Không phải trùng hợp nhưng Nguyễn Tuân đã mô tả tới 2 lần cái “ánh sáng đỏ rực”, cái “lửa đóm cháy rừng rực” đã xua tan và đẩy lùi cái bóng tối chi chít trong phòng giam. Nhấn mạnh tới cái ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đó, rõ ràng ấy là dụng tâm nghệ thuật của nhà văn.

– Ở đây, ko chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật lí, nhưng sâu xa hơn và nói chung hơn, đây là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh của con người: ánh sáng của lương trí, thiên lương và bóng tối của hung tàn, ác nghiệt. Ánh sáng của thiên lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tối của hung tàn chính tại nơi tù ngục này. Ánh sáng đó đã khai tâm, đã cảm hóa con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện.

2. Sự thắng lợi của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự thế tục, sự dơ dáy

* Sự thế tục, sự dơ dáy ở đây được biểu lộ rất rõ trong cảnh “1 buồng chật hẹp, ẩm mốc, tường đầy màng nhện, tổ rệp, đất lộn xộn phân chuột, phân gián”; còn cái đẹp, cái cao thượng lại được nhắc đến thâm thúy trong 2 cụ thể mang ý nghĩa biểu tượng: “màu trắng bốp của phiến lụa óng và mùi thơm từ châu mực bốc lên – điều hình như chẳng thể có trong chốn tù ngục. Màu trắng của phiến lụa biểu tượng cho sự thuần khiết còn mùi thơm của thỏi mực là hương thơm của tình người, tình đời”.

* Sự đối lập nói trên đã nêu bật sự thắng lợi của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự thế tục, sự dơ dáy. Tâm hồn Huấn Cao mênh mang tới chừng nào lúc ông nói về mùi thơm của mực: “Thoi mực, thầy sắm ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên ko?…”. Thế là, ko có nhà ngục nào còn đó nữa, chẳng còn bóng tối, cũng chẳng còn màng nhện, phân chuột, phân gián nữa. Chỉ còn lại sự thơm tho của mực, sự thuần khiết của lụa – nó là sự thơm tho và thuần khiết của thiên lương con người.

3. Sự thắng lợi của ý thức quật cường trước thải độ cam chịu bầy tớ

– Đây là sự phối hợp giữa những con người trong cảnh cho chữ. Và ở đây, ta thấy có sự thay bậc đổi ngôi: người tù lại như người làm chủ (đường hoàng, hiên ngang, thung dung, thanh thản); còn bọn ngục lại khúm núm, khiếp sợ và xúc động trước những lời khuyên dạy của tội phạm (viên quản ngục “khúm núm cất những đồng bạc kẽm ghi lại ô chữ”, thầy thư lại “run run bưng chậu mực”).

– Sự thắng lợi của ý thức quật cường trước thái độ cam chịu bầy tớ đã được khắc họa đậm nét trong cảnh cho chữ và những con người trong cảnh đó. Không còn là cảnh cho chữ tầm thường nhưng là 1 cảnh thụ giáo thiêng liêng giữa người cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy đĩnh đạc của Huấn Cao có khác gì 1 di chúc về lẽ sống trước lúc ông đi vào cõi bất diệt. Và lời khuyên đầy tình người đó đã có sức mạnh cảm hóa 1 tâm hồn lâu nay vẫn cam chịu bầy tớ, 1 con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện. Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quản ngục đã nêu bật sự thắng lợi của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương con người: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

III. Kết bài

  • Khẳng định trị giá nhân bản cao đẹp của cảnh cho chữ.
  • Ý nghĩa nhân bản và trị giá nhân đạo thâm thúy của sự thắng lợi ấy (khi bấy giờ và hiện thời).

Dàn ý phân tách cảnh cho chữ – Mẫu 4

I. Mở bài

– Nguyễn Tuân là nhà văn yêu cái đẹp. Văn ông ko thiếu những con người, những tình cảnh đẹp tới hoàn bích nhưng cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù”là thí dụ tiêu biểu.

– Cảnh cho chữ được nhận xét là 1 cảnh tượng “bấy lâu chưa từng có”.

II. Thân bài

1. Tóm lược tình cảnh trước lúc cho chữ

– Người tù Huấn Cao: vốn là người có tâm hồn khoáng đạt, thích tự do và đáng ghét những kẻ nhũng nhiễu dân chúng. Ông còn là người nghệ sĩ tài năng thích thú cái đẹp và luôn gìn giữ thiên lương trắng trong. Huấn Cao cũng có nguyên lý riêng của mình, ông có tài viết chữ nổi danh nhưng mà chỉ cho những người ông quý, ko bao giờ cúi đầu trước quyền uy và đồng bạc.

– Quản ngục: 1 người có thiên lương, biết quý trọng người hiền và yêu cái đẹp nhưng mà lại làm nghề quản ngục. Khao khát được chữ của Huấn Cao treo trong nhà là khát khao phệ đời ông.

2. Diễn biến cảnh cho chữ

– Thời gian: Cảnh huống cho chữ diễn ra vô cùng thiên nhiên chỉ mất khoảng giữa đêm nhưng mà lại là thời kì rốt cuộc của 1 con người tài giỏi.

– Không gian: Cảnh cho chữ thiêng liêng lại được tổ chức trong cảnh âm u của ngục tối. Bối cảnh được khắc họa trên nền đất ẩm mốc, mùi hôi của dán, chuột…

– Người cho chữ là người tử tù nhưng mà uy phong, đang trong tư thế ban ơn nghĩa rốt cuộc của mình cho người khác. Kẻ xin chữ lẻ ra là người có quyền bính hơn nhưng mà cúi đầu mang ơn.

3. Nguyên nhân cảnh cho chữ là “cảnh tượng bấy lâu chưa từng có”

– Thông thường người ta chỉ sáng tác nghệ thuật ở nơi có ko gian phổ biến, nghiêm trang hay chí ít là nơi sạch bóng, đằng này cảnh cho chữ lại diễn ra nơi cái ác ngự trị.

– Người nghệ sĩ làm ra tác phẩm nghệ thuật phải thật sự dễ chịu về tâm lí, thân xác khi mà Huấn Cao phải đeo gông, xiềng xích và nhận án tử vào ngày hôm sau.

– Người quản ngục là người có quyền buộc phải kẻ tử tù nhưng mà trái lại kẻ tử tù lại ở vị thế cao hơn có quyền cho hay ko cho chữ.

4. Ý nghĩa của cảnh cho chữ

  • Ca ngợi tấm lòng thiên lương của 2 đối tượng Huấn Cao và viên quản ngục.
  • Ca ngợi sự thắng lợi của cái đẹp dù ở nơi âm u nhất.
  • Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn trong con người của Huấn Cao từ ấy trình bày quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân.

III. Kết bài

Khẳng định lại trị giá của cảnh cho chữ trong việc trình bày tư tưởng của nhà văn Nguyễn Tuân.

Xem thêm So sánh cảnh cho chữ của Huấn Cao và cảnh vượt thác sông Đà

Dàn ý phân tách cảnh cho chữ – Mẫu 5

I. Mở bài

Giới thiệu về Nguyễn Tuân và cảnh huống truyện hết sức đắt giá cảnh cho chữ giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Khẳng định Nguyễn Tuân chính là bậc thầy trong việc xây dựng cảnh huống truyện.

II. Thân bài

1. Cảnh cho chữ chính là 1 việc bấy lâu chưa từng có

– Trong 1 cảnh huống hết sức oái oăm: nhà giam với bao quanh là cái ác và 1 bên là cái đẹp của tư cách thiện lương. Qua ấy khẳng định cái đẹp bao giờ cũng thắng lợi sự tù túng và xấu xa.

– Thời gian vào khi đêm khuya trong ánh đèn leo lắt của lao tù. Trong 1 ko gian tù túng, chật hẹp của nhà giam 3 cái đầu người đang chuyên chú vào tấm lụa bạch. Cái ánh sáng leo lắt ấy mang 1 dụng tâm nghệ thuật phệ lao…

– Ở đây ko chỉ có sự đối lập ánh sáng bóng tối theo ý nghĩa vật lí nhưng còn sâu xa là chứa đựng sự đối lập giữa nhân sinh. Và nó có ý nghĩa cảm hóa đưa con người về đúng trị giá tình cảnh của nó.

2. Khẳng định cái đẹp bao giờ cũng thắng lợi cái ác

– Cái ác: chốn tù ngục, trong 1 ko gian đầy rẫy phân chuột, phân gián.

– Cái đẹp: màu trắng của tấm lụa, thơm của nghiên mực. Nó biểu tượng cho tư cách của con người thanh cao và tinh khiết.

=> Sự đối lập đó nhằm khẳng định sự bất bại của cái đẹp nghệ thuật và sự trường tồn của nó trong mọi tình cảnh. Hình như nó đã vượt lên cả những sự tù túng tăm tối nơi trại giam.

3. Nghệ thuật chẳng thể còn đó song hành cùng cái ác và hướng con người tới chân thiện mỹ

– Cảnh huống chỉnh sửa quy trình bị hoán đổi: viên quản ngục khúm núm còn ông Huấn Cao đĩnh đạc. Cho thấy cái đẹp bao giờ cũng ở phía trên….

– Nghệ thuật có tác dụng cảm hóa và hướng con người tới những cái đẹp chân thiện mỹ. Đưa ông quản ngục trở về đúng tình cảnh của mình rời xa chốn quan trường nhiễu nhen này. Lời khuyên của ông Huấn “Chỗ này ko hợp với ông….”.

III. Kết bài

Khẳng định lại cảnh huống truyện đắt giá, và tài năng của nhà văn Nguyễn Tuân.

Dàn ý phân tách cảnh cho chữ – Mẫu 6

I. Mở bài

  • Giới thiệu đôi nét về nhà văn Nguyễn Tuân, tác phẩm Chữ người tử tù.
  • Dẫn dắt để giới thiệu tới cảnh cho chữ – 1 cảnh tượng bấy lâu chưa từng có.

II. Thân bài

1. Tóm lược tác phẩm

“Chữ người tử tù” kể về Huấn Cao – chỉ huy của cuộc khởi nghĩa thất bại, bị triều đình bắt và kết án xử tử. Trước lúc được giải tới đế kinh để hành quyết, bị đưa tới trại giam ở tỉnh Sơn. Viên quản ngục tỉnh Sơn nghe danh Huấn Cao là 1 người nổi danh là người có tài viết chữ đẹp nên hâm mộ đã lâu. Khi kẻ tử tù tới trại giam, viên quản ngục đã đối xử biệt đãi, nhưng mà chỉ thu được sự khinh bạc của Huấn Cao. Tới lúc trông thấy được tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao đã quyết định cho chữ. Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam chật hẹp và tăm tối, nhưng mà những nét chữ “rồng bay phượng múa” lại trình bày cái chí phệ của 1 con người. Sau lúc cho chữ, Huấn Cao khuyên viên quản ngục thoát khỏi nơi ngục thất, về quê để giữ lấy “thiên lương trắng trong”. Viên quản lục nghe xong lời khuyên của Huấn Cao cảm động, chắp tay vái lạy rồi nói: “Kẻ mê muội này xin lĩnh ý”.

2. Phân tích cảnh cho chữ

a. Hoàn cảnh cho chữ

– Thời gian nghệ thuật Ban đêm đó, khi trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vắng có tiếng mõ trên vọng tiêu.

– Không gian nghệ thuật: Trong 1 buồng tối chật hẹp, ẩm mốc, tường đầy màng nhện, đất lộn xộn phân chuột, phân gián.

– Vị thế bị đảo ngược:

  • Người xin chữ: viên quan coi ngục – người có quyền thì lại khúm núm, run run.
  • Kẻ cho chữ: 1 người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng thì lại hiên ngang, dễ chịu.

b. Diễn biến cảnh cho chữ

– Người tù đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng bốp căng trên mảnh ván.

– Người tù viết xong 1 chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng bạc kẽm ghi lại ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thư lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực.

– Huấn Cao nói những lời cuối với Quản ngục: “Ở đây lộn lạo. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi….”.

=> Lời khuyên của Huấn Cao với viên quản ngục chứng tỏ đối tượng không thừa nhận cái đẹp lộn lạo cùng cái ác, muốn thưởng thức cái đẹp phải chăm lo, gìn giữ cái thiên lương. Lời khuyên tâm thành của Huấn Cao khiến đối tượng như biến thành người khai sáng, người đi tuyên giáo giáo.

c. Ý nghĩa của cảnh cho chữ

– Khẳng định thiên lương trắng trong, tốt đẹp của Huấn Cao, viên quản ngục.

– Thể hiện ý kiến của Nguyễn Tuân về cái đẹp: Cái đẹp có thể phát sinh ngay cả trong tình cảnh tăm tối, xấu xa. Nhưng nó chẳng thể còn đó song song cộng với cái xấu, cái ác.

III. Kết bài

  • Khẳng định trị giá nội dung và nghệ thuật của cảnh cho chữ.
  • Bình chọn về tài năng văn học của Nguyễn Tuân.

Xem thêm Cảm nhận Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù

.

Similar Posts